Cổ phiếu và trái phiếu đều được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ - Cổ phiếu và trái phiếu đều có mệnh giá được ghi trên bề mặt cổ phiếu/trái phiếu - Lợi tức của cổ phiếu và trái phiếu được trả theo một mức cố định. Phân biệt cổ phiếu và trái phiếu do Công ty cổ phần phát hành trong bài viết sau đây:
Tham khảo thêm các bài viết khác:
+ Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thương mại hiện nay
+ Những biến đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
- Cả cổ phiếu và trái phiếu đều được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ
- Cổ phiếu và trái phiếu đều có mệnh giá được ghi trên bề mặt cổ phiếu/trái phiếu
- Lợi tức của cổ phiếu và trái phiếu được trả theo một mức cố định
- Cổ phiếu là một chứng thư dùng để xác nhận quyền sở hữu trong Công ty và cho phép người sở hữu nó hưởng các quyền lợi thông thường trong công ty cổ phần: Như hưởng lợi nhuận từ inh doanh, quyền biểu quyết, hội họp,...
Đặc điểm:
- Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn, việc phát hành cổ phiếu sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu. - Loại chứng khoán không có kỳ hạn thanh toán.
- Cổ tức sẽ được trả vào cuối niên để quyết toán
- Cổ phiếu gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm của cổ đông:
+ Phần vốn góp là vĩnh viễn không được rút ra nhưng có thể chuyển nhượng quyền sở hữu bằng cách bán cổ phiếu cho người khác theo mức giá dựa trên giá trị thương hiệu. Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạnh trong phần vốn góp.
+ Quyền được hưởng cổ tức: Phần lời được chia lời chỉ khi công ty có lãi.
+ Người sở hữu cổ phiếu có quyền tham gia vào quản lý hoạt động kinh doanh của công ty.
+ Quyền lợi đối với các đợt chứng khoán phát hành trong tương lai của công ty
+ Được hưởng phúc lợi dành cho cổ đông
- Trái phiếu là một lọai chứng thư vay vốn do doanh nghiệp phát hành thể hiện nghĩa vụ và sự cam kết của doanh nghiệp thanh toán số lợi tức và tiền vay vào những thời điểm nhất định cho người sở hữu trái phiếu.
Phân biệt cổ phiếu và trái phiếu của Công ty cổ phần
Đặc điểm:
- Là một loại chứng khoán ghi nợ, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn vay trung và dài hạn.
- Trái phiếu có thời hạn: Là thời hạn đi vay của doanh nghiệp phát hành đối với trái chủ và được ghi rõ trên trái phiếu
- Trái phiếu có quy định lợi suất và thời hạn trả: Khác với cổ phiếu không quy định cụ thể tỷ suất cổ tức và thời hạn trả lãi. Trên mỗi trái phiếu có ghi cam kết của tổ chức phát hành thanh toán cho người sở hữu trái phiếu một số tiền lãi cố định vào một ngày xác định.
- Trái chủ chính là người cho vay tiền vì vậy trái chủ sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ nhất định đối với khoản vay:
+ Lợi tức của trái phiếu hoàn toàn không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty, nghĩa là công ty làm ăn lỗ vốn vẫn phải trả lãi cho trái chủ.
+ Doanh nghiệp đi vay phải có nghĩa vụ hoàn vốn đúng hạn hoặc trước hạn tùy thỏa thuận 2 bên
+ Trái chủ được quyền bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố trái phiếu
+ Trái chủ được thanh toán trước các cổ phiếu khi công ty tuyên bố giải thể
Tóm lại:
- Về tính chất: Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ ghi nhận quyền sở hữu đối với một phần vốn điều lệ. Trong khi đó, trái phiếu lại là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ ghi nhận quyền sở hữu đối với một phần vốn vay.
- Về tư cách của chủ sở hữu: Người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông của công ty cổ phần, có quyền tham gia quản lí, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty. Còn người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của công ty, có quyền đòi thanh toán các khoản nợ theo cam kết, nhưng không có quyền than gia quản lí, điều hành công ty.
- Về quyền của chủ sở hữu: Người sở hữu cổ phiếu của công ty cổ phần được chia lợi nhuận (hay còn gọi là cổ tức), tuy nhiên lợi nhuận này không ổn định mà phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Trong khi đó người sở hữu trái phiếu do công ty cổ phần phát hành được trả lãi định kì, lãi suất ổn định, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty.
- Về thị giá: Thị giá cổ phần sẽ liên tục thay đổi, chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Trong khi đó, thị giá trái phiếu thì tương đối ổn định do tính ổn định của khoản nợ và lãi suất.
Thứ năm, về thời gian đáo hạn: Cổ phiếu thì không có thời gian đáo hạn, còn trái phiếu thường có một thời gian nhất định được ghi trong trái phiếu.
- Về hậu quả pháp lí của việc phát hành đối với công ty: Kết quả của việc phát hành cổ phiếu sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty cổ phần và làm thay đổi quyền quản trị của các cổ đông. Còn kết quả của việc phát hành trái phiếu sẽ làm tăng vốn vay của công ty cổ phần và không ảnh hưởng gì đến quyền quản trị của các cổ đông. Trên đây là cách phân biệt cổ phiếu và trái phiếu rõ ràng nhất, hy vọng giúp bạn hiểu rõ hơn về 2 phạm trù này. (Nguồn: Luật Dương Gia).
Khả năng tiếp cận nguồn vốn: Việc phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp chủ động linh hoạt hơn trong việc tiếp cận được những nguồn vốn lớn. Khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp có quyền chủ động đưa ra những điều kiện linh hoạt để phù hợp với điều kiện thị trường: như loại trái phiếu phát hành là trái phiếu trơn, trái phiếu chứng quyền, linh hoạt trong việc định lãi trái phiếu (cố định, thả nổi, thả nổi theo kỳ), nên trái phiếu có tiềm năng hấp dẫn nhà đầu tư hơn. Còn doanh nghiệp phát hành cổ phiếu không có được đặc tính này. Tuy nhiên, tiền huy động được từ trái phiếu thường đến từ các nguồn đầu tư mang tính dài hạn nên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận kênh huy động vốn này. Nên việc phát hành cổ phiếu thường được ưu tiên hơn.
Tính thanh khoản: Đối với trái phiếu hiện nay ở Việt Nam thì chưa có thị trường giao dịch thứ cấp(sàn giao dịch) nên tính thanh khoản của trái phiếu hạn chế hơn so với cổ phiếu đã niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Khả năng làm pha loãng sở hữu khi có thêm nguồn vốn: Việc phát hành trái phiếu không làm tăng vốn cuả chủ sở hữu công ty, trừ trường hợp trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu. Phát hành cổ phiếu sẽ làm tăng số vốn của công ty.
Chi phí sử dụng vốn: Chi phí lãi từ trái phiếu phải trả cho trái chủ là chi phí trước thuế, được khấu trừ khi tính thuế. Ngược lại, cổ tức của cổ phiếu là phần trích từ lợi nhuận sau thuế. Đây là yếu tố cho thấy phát hành trái phiếu có chi phí vốn thấp hơn so với cổ phiếu.
Tính linh hoạt trong việc trả lãi cho nhà đầu tư: Khi huy động vốn bằng trái phiếu, doanh nghiệp phải trả lãi theo lãi suất theo thời hạn xác định trước. Dòng tiền dùng để thanh toán lãi có thể làm doanh nghiệp mất đi nhiều cơ hội đầu tư khác. Trái lại, những người chủ sở hữu doanh nghiệp có thể quyết định thay đổi mức cổ tức phải trả, dừng, trì hoãn hay không trả cổ tức.
- Fixed rate bond: Trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá
- Floating rate bond: Trái phiếu mà lợi tức trả trong các kỳ khác nhau và được tính theo một lãi suất tham chiếu (LIBOR, Euribor).
- Zero-coupon bond: Trái phiếu không trả lãi, thường được phát hành với giá chiết khấu rất sâu so với mệnh giá. Khoản tiền có giá trị bằng mệnh giá được trả khi đáo hạn.
- High-yield bond (trái phiếu rác – junk bond): Trái phiếu có mức độ uy tín thấp hơn các tiêu chuẩn thông thường. Các trái phiếu này thường tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ và thường chào bán với YTM cao.
- Convertible bond: Trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu công ty theo một tỉ lệ công bố trước và vào một khoảng thời gian xác định trước
- Assets-backed securities (ABS): Là trái phiếu được phát hành trên cơ sở có sự đảm bảo bằng một tài sản hoặc một dòng tiền nào đó từ một nhóm tài sản gốc của người phát hành.
Cổ phiếu thưởng là một khái niệm bạn sẽ thường xuyên gặp phải trong quá trình đầu tư và có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bạn.
Thực chất, cổ phiếu thưởng là hình thức chia tách cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Ví dụ: Bạn đang có 1 cổ phiếu và nó được xé ra làm 2 cổ phiếu và bạn trở thành có 2 cổ phiếu nhưng giá của nó cũng bị điều chỉnh bằng 1/2 trước đó để đảm bảo quy luật giá trị không đổi.
Giá cổ phiếu sau khi chia tách nhỏ đi thường mang lại cảm giác ‘ rẻ ‘ hơn và vì vậy trong nhiều trường hợp trở thành động lực tăng điểm và có khi tăng trở lại mức giá trước khi chia tách.
Do vậy có cảm giác như nhà đầu tư được không đoạn tăng điểm đó và nó được ví như được thưởng nên gọi là cổ phiếu thưởng.
Cổ phiếu quỹ là cổ phiếu do công ty phát hành mua ngược lại từ thị trường chứng khoán. Việc công ty mua ngược lại cổ phiếu từ thị trường mở sẽ làm giảm số lượng cổ phiếu lưu hành (outstanding share) của công ty này. Cổ phiếu quỹ có một số đặc điểm sau:
– Cổ phiếu quỹ không được trả cổ tức
– Cổ phiếu quỹ không có quyền biểu quyết
– Tổng số cổ phiếu quỹ không được phép vượt quá tỷ lệ vốn hóa mà pháp luật quy định
Khi công ty quyết định mua cổ phiếu quỹ, thông tin này sẽ được công bố và thị trường thường có phản ứng tích cực với thông tin này. Tất nhiên tích cực đến mức nào còn phụ thuộc vào khối lượng đăng ký mua vào.
ESOP là viết tắt của Employee Stock Ownership Plan là một chương trình phát hành hay bán ưu đãi cổ phiếu của công ty cho người lao động (số lượng có giới hạn) với giá rẻ hơn so với giá thị trường cùng với các điều kiện về hạn chế giao dịch và có lựa chọn với các cá nhân cụ thể.
ESOP được dùng như một cách để giữ chân người tài của các doanh nghiệp và dần trở thành một xu thế rất phổ biến tại các doanh nghiệp
ESOP cũng là một công cụ giúp các nhà quản trị, lãnh đạo doanh nghiệp lách được các khoản thuế thu nhập khổng lồ.
OTC là viết tắt của Over-the-Couter, là những cổ phiếu đã phát hành như chưa niêm yết trên các trung tâm giao dịch chứng khoán.
Và vì chưa niêm yết nên giá cổ phiếu OTC không có biên độ, nó hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa thuận giữa người mua và người bán. Vào những thời điểm thị trường nóng, cổ phiếu OTC có thể tăng gấp 2, gấp 3 chỉ sau 1 đêm.
Cũng cần chú ý thêm, do không bị ràng buộc bởi các quy định về công bố thông tin,kiểm toán… nên thông tin về các cổ phiếu OTC thường cũng không minh bạch và do đó có thể bị lợi dụng để trục lợi.
Cổ phiếu tăng trưởng là một cụm từ sẽ luôn được nhắc đến khá nhiều trên báo chí, trên các diễn đàn cũng như trong các câu chuyện liên quan tới chứng khoán của các bên tư vấn và môi giới chứng khoán.
Khi nói đến cổ phiếu tăng trưởng, hầu hết đều hàm ý rằng công ty đó đang làm ăn tốt lên và điều đó thể hiện qua những chỉ tiêu như doanh thu, lợi nhuận và cả tỷ lệ cổ tức.
Hầu hết nhà đầu tư đều luôn muốn sở hữu những cổ phiếu đang tăng trưởng, bởi tăng trưởng là một trong những động lực để giá cổ phiếu đi lên.
Tên “Blue Chip” đến từ trò Poker (bài xì phé). Trong trò chơi nay, các thẻ màu xanh lá cây (Blue chip) có giá trị cao nhất trong số toàn bộ các thẻ dùng để chơi.
Một công ty “Blue Chip” là một công ty nổi tiếng và được nhận biết trên toàn quốc gia. Chúng thường là những công ty lớn nhất và là trụ cột của mỗi nền kinh tế. Những biến động của cổ phiếu “Blue Chip” có thể tác động lớn tới tình hình chung của toàn thị trường trong mỗi phiên giao dịch.
Các công ty “Blue Chip” cũng có xu hướng ổn định hơn trong hoạt động của mình, họ có được thu nhập ổn định và tình hình tài chính khả quan.
Trái ngược với cổ phiếu Bluechip, cổ phiếu Penny là cách gọi của những cổ phiếu có thị giá thấp, thường là dưới mệnh giá hay giá chỉ tương đương với 1 đồng xu.
Thường thì giá cổ phiếu không phản ánh được xu thế tăng giảm của cổ phiếu đó, tuy nhiên mức giá của cổ phiếu nói lên được trạng thái của doanh nghiệp đang như thế nào.
Một doanh nghiệp tốt không thể có giá dưới mệnh giá, thị trường có thể định giá sai trong 1 giai đoạn ngắn hạn, nhưng về dài hạn thì giá thị trường nói lên tất cả.
Tìm hiểu thêm về các loại Rủi ro tín dụng thường gặp phải trong kinh doanh ngân hàng và tín dụng.
NNguyễn Trang
Em đang làm đề tài "Phân biệt cổ phiếu và trái phiếu của Công ty cổ phần". Ah/chị có tài liệu nào tương tự k cho e xin mẫu tham khảo với ạ.
Trả lời5 years ago
Du học thạc sĩ Đài Loan
11/09/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Có nên học thạc sĩ điều dưỡng không?
10/09/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Học phí thạc sĩ đại học Sư Phạm TPHCM
09/09/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Vừa học thạc sĩ vừa đi làm
22/08/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Thạc sĩ tâm lý học online
21/08/2024 | Nguyễn Tuyết Anh