Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận sản xuât kinh doanh ứng ra để hình thành nên tài sản cố định của doanh nghiệp. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, có đặc điểm là tham gia nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của nó.
Xem thêm:
+ Khái quát chung về vốn cố định và phân cấp vốn cố định
Theo quan điểm của K.Marx, vốn là tư bản, mà tư bản được hiểu là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
Như vậy, hiểu một cách thông thường, vốn là toàn bộ giá trị vật chất được doanh nghiệp đầu tư để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn có thể là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra và tích luỹ được qua thời gian sản xuất kinh doanh cũng có thể là những của cải mà thiên nhiên ban cho như đất đai, khoáng sản…
Với sự phát triển vũ bão của nền kinh tế thị trường, các ngành nghề mới liên tục ra đời, quan niệm về vốn cũng ngày càng được mở rộng. Bên cạnh vốn hữu hình, dễ dàng được nhận biết, còn tồn tại và được thừa nhận là vốn vô hình như: các sáng chế phát minh, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, vị trí đặt trụ sở của doanh nghiệp…Theo cách hiểu rộng hơn, người lao động cũng được rất nhiều doanh nghiệp coi là một trong những nguồn vốn quan trọng.
Có thể thấy, vốn tồn tại trong mọi giai đoạn sản xuất kinh doanh, từ dự trữ; sản xuất đến lưu thông; doanh nghiệp cần vốn để đầu tư xây dựng cơ bản; cần vốn để duy trì sản xuất và để đầu tư nâng cao năng lực sản xuất… Quyết định tài trợ, do đó, là một trong 3 nhóm quyết định quan trọng của tài chính doanh nghiệp và có ảnh hưởng sâu sắc tời mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp – tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
Có nhiều khái niệm về vốn khác nhau tuy nhiên ta có thể nói như sau: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố này để tạo ra sản phẩm, doanh nghiệp dịch vụ.
Trong nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, để có được các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền vốn nhất định. Chỉ khi nào có được tiền vốn doanh nghiệp mới có thể đầu tư mua sắm các tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như để trả lương cho người lao động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn có nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm đó. Khi sản phẩm được tiêu thụ doanh nghiệp sẽ có được một khoản tiền gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm, trong đó một phần dung để bù đắp cho tài sản cố định hao mòn. một phần để tái lập các vật dự trữ trong kỳ tiếp theo và mở rộng quy mô sản xuất, một phần tra lương cho người lao động.
Do đó các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp phải đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh và vốn bằng tiền chính là tiền đề cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được dụng để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Khái niệm về vốn
- Khái niệm về vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận sản xuât kinh doanh ứng ra để hình thành nên tài sản cố định của doanh nghiệp. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, có đặc điểm là tham gia nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được dịch chuyển dần vào giá trị sản phẩm. Tài sản cố định khi tham gia vào quá trình sản xuất không bị thay đổi hình thái ban đầu nhưng tính năng và công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn cùng với giá trị của nó cũng giảm đi.
- Khái niệm về vốn lưu động: Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn sản xuất kinh doanh ứng ra để mua sắm và hình thành tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách thường xuyên liên tục. Tái sản lưu động của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm.
Vì vậy giá trị của nó cũng được dich chuyển một lần vào giá trị sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này quyết định sự vận động của vốn lưu động, tức là hình thái giá trị của tài sản lưu động là khởi đầu vòng tuần hoàn của vốn, vốn lưu động từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật tư hang hóa dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất vật tư được đưa vào chế tạo bán thành phẩm và thành phẩm. Kết thúc vòng tuần hoàn sau khi hàng hóa tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu của nó.
Vốn là giá trị toàn bộ tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc thiết bị…), tài sản vô hình (sáng chế, phát minh, nhãn hiệu thương mại…) mà doanh nghiệp đầu tư và tích luỹ được trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra giá trị thặng dư.
Vốn tồn tại trong mọi quá trình sản xuất và được chuyển hoá từ dạng này sang dạng kia: từ nguyên, nhiên vật liệu đầu vào đến các chi phí sản xuất dở dang, bán thành phẩm và cuối cùng chuyển hoá thành thành phẩm rổi chuyển về hình thái tiền tệ.
Vốn luôn gắn liền với quyền sở hữu, việc nhận định rõ và hoạch định cơ cấu nợ – vốn chủ sở hữu luôn là một nội dung quan trọng và phức tạp trong quản lý tài chính doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn còn được coi là một hàng hoá đặc biệt do có sự tác bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Do đó, việc huy động vốn bằng nhiều con đường: phát hành cổ phiếu, trái phiếu; tín dụng thương mại; vay ngân hàng…đang được các doanh nghiệp rất quan tâm và được vận dụng linh hoạt.
Do sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, sự luân chuyển phức tạp của vốn nên yêu cầu quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả tránh lãng phí thất thoát được đặt lên cao.
Nghiên cứu vốn, hiểu rõ hơn và tìm cách phân loại để có những phương thức cụ thể với từng loại. Tùy theo những tiêu thức mà vốn được phân chia theo nhiều loại khác nhau:
+ Vốn chủ sở hữu: là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ quyền chiếm hữu chi phối và định đoạt. Nó có thể hình thành do nhà nước cấp, do doanh nghiệp bỏ ra hoặc do góp vốn cổ phần, bổ sung từ lợi nhuận để lại. Hình thành từ thăng dư vốn: đây là khái niệm chi chênh lệch giữa giá trị thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó ở thời điểm phát hành.
Hình thành từ thu nhập giữ lại; trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để gia tăng nguồn vốn. Nguồn vốn tích lũy từ thu nhập giữ lại để tái đầu tư, tài trợ cho các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp.
Phân loại vốn
Hình thành từ phát hành cổ phiếu.
+ Nợ phải trả; là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải thanh toán tại một thời điểm nào đó cho các chủ sở hữu khác. Hình thành do doanh nghiệp phát hành trái phiếu, nợ khách hàng, cán bộ công nhân viên.
Tìm hiệu thêm khái niệm về vốn bằng tiền là gì
+ Huy động từ bên trong: Từ nguồn vốn chủ sở hữu :huy động từ số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
Từ quỹ khấu hao: Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải dịch chuyển dần phần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ gọi là khấu hao TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được dịch chuyển vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích luỹ hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp.
Từ lợi nhuận để tái đầu tư: Khi một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì phần lợi nhuận thu được có thể được trích ra một phần để tái đầu tư nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh .
+ Huy động vốn từ bên ngoài: Từ hoạt động liên doanh liên kết: Nguồn vốn liên kết là những nguồn đóng theo tỷ lệ của các chủ đầu tư để nhằm thực hiện một phi vụ kinh doanh ngắn hạn hoặc đầu tư dài hạn do mình thực hiện và cùng chia lợi nhuận. Việc góp vốn liên kết có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau tuỳ theo từng loại hình của doanh nghiệp .
+ Nguồn vốn thường xuyên: Tương ứng với mỗi một quy mô nhất định đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn thường xuyên cần thiết để đẩm bảo cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục. Nguồn vốn này có thể huy động từ nguồn vốn chủ sở hữu, phát hành trái phiếu dài hạn hoặc có thể vay dài hạn từ các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng...
+ Nguồn vốn tạm thời: Trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từng thời kỳ có các nguyên nhân khác nhau ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Chính vì hình thành nên nguồn vốn có tính chất tạm thời như những khoản nợ ngắn hạn, phần vốn chiếm dụng của người bán ...
+ Vốn cố định: Vốn cố định là giá trị của các loại tài sản cố định (TSCĐ). Các loại tài sản này là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng kéo dài qua rất nhiều chu kì kinh doanh của doanh nghiệp
+ Vốn lưu động: Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông.
Vốn của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
Vốn dự trữ: Là hiện thân bằng tiền toàn bộ giá trị của các loại tài sản dự trữ trong doanh nghiệp. Tài sản dự trữ là các loại tài sản chưa được đưa vào quá trình sản xuất hoặc lưu thông như giá trị còn lại của tài sản cố định, nguyên vật liệu tồn kho, tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng.
Vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị sản xuất như sản phẩm dở dang đang nằm trên dây chuyền sản xuất, các loại chi phí tiền lương chi phí quản lý…
Vốn lưu thông là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản lưu thông của doanh nghiệp. Tài sản lưu thông của doanh nghiệp là loại tài sản đang tồn tại trên kĩnh vực lưu thông như hàng hoá gửi bán chi phí bán hàng các khoản phải thu. Sau quá trình lưu thông giá trị sản phẩm được thực hiện vốn của doanh nghiệp được thu về với hình thái tiền tệ như ban đầu nhưng với số lượng thường là lớn hơn và vòng chu chuyển của vốn đã hoàn thành.
Trên đây là các cách phân loại vốn cơ bản của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức phân loại khác nhau tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý vốn sao cho hợp lý và dễ quản lý nhất.
Bất kể một hoạt động nào muốn thực hiện được đều phải có những tiền đề cơ bản. ví dụ như để nấu được cơm thì trước hết phải có gạo và nước. Và để hoạt động sản xuất kinh doanh có thể được thực hiện thì trước hết phải cần có vốn.
Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có thể thuộc sở hữu nhà nước, cá nhân, tập thể. Sở hữu cá nhân nếu số vốn đó nằm trong công ty tư nhân. sở hữu tập thể nếu số vốn đó nằm trong công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hình thành từ nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp thuộc sở hữu nhà nước. Nhưng dù ở hình thức sở hữu nào thì vai trò của vốn cũng không thay đổi.
Với mọi doanh nghiệp dù ở hình thức nào thì muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được đều phải có lượng vốn nhất đinh. Đây là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình kinh doanh mà luật qui định doanh nghiệp phải có số vốn pháp định nhất định. Tuỳ theo nguồn vốn kinh doanh cũng như phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp có các tên gọi khác nhau như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…Có vốn doanh nghiệp mới có điều kiện để trang bị các thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh như văn phòng, phương tiện hoạt động, … cùng với việc ứng dụng khoa học vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn cũng quyết định đến khả năng đổi mới thiết bị, công nghệ, phương pháp quản lý,…của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động.
Số lượng vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một trong những tiêu thức quan trọng để xếp doanh nghiệp vào qui mô lớn, hay nhỏ và nó cũng là điều kiện để sử dụng các tiềm năng hiện có cũng như các yếu tố đầu vào doanh nghiệp. ví dụ khi doanh nghiệp có ít vốn thì chỉ có thể sử dụng các loại máy móc có công nghệ trung bình và sử dụng nhiều nhân công. Ngược lại doanh nghiệp có lượng vốn lớn thì có khả năng sử dụng công nghệ hiện đại, tiết kiệm được nhiều chi phí và nhân công. Ngoài ra vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ còn quyết định đến qui mô thị trường và khả năng mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp vốn còn đóng vai trò thể hiện ở chức năng giám đốc tài chính đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể đánh giá có hiệu quả kinh doanh hay không thông qua các chỉ tiêu sinh lời.
Vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục từ khoản mua sắm vật tư, sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có các bí quyết công nghệ tiên tiến để nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện được cả quá trình trên thì doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư.
Bên cạnh đó vốn còn ảnh hưởng đén phạm vi hoạt động đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp bởi tất cả nhũng hoạt động xây dựng phương án kinh doanh đầu tư máy móc sản xuất, dây chuyền công nghệ, xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm, phân tích thị trường… đều phụ thuộc vào quy mô vốn nhất định.
Việc đảm bảo tốt nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh nghiệp trong việc chống đỡ được những tổn thất, rủi ro, biến động thị trường, khủng hoảng tài chính…trong quá trình hoạt động, đặc biệt là những ngành kinh doanh nhiều rủi ro như ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường cùng với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, việc có vốn và tập trung vốn nhiều hay ít vào doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh. Đồng thời nó cũng là nguồn lực để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp, là điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược, kinh doanh, và nó cũng là chất keo để chắp nối, kết dính các quá trình kinh tế là dầu nhớt để bôi trơn cỗ máy kinh tế vận động.
Như vậy vai trò của vốn rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cũng cho thấy doanh nghiệp nào có lượng vốn càng lớn thì càng có thể chủ động trong kinh doanh. Ngược lại doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh doanh không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất cơ hội kinh doanh, cũng như vai trò của mình trên thị trường mất bạn hàng thường xuyên ổn định không tạo ra sức mạnh và hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh.
Nhận biết được vai trò của vốn trong kinh doanh, nhưng để có được lượng vốn cần thiết thì nhất thiết doanh nghiệp phải có các biện pháp tạo lập hữu hiệu và phù hợp, đồng thời phải có chính sách sử dụng hiệu quả và hợp lý. Tuy nhiên sử dụng hình thức tạo lập nào, thời hạn dài hay ngắn, chi phí huy động cao hay thấp… bắt buộc doanh nghiệp phải luôn có sự cân nhắc, vừa đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa tối thiểu hoá chi phí, hạn chế thấp nhất rủi ro nhằm thực hiện được các mục tiêu của mình.
Mặt khác mỗi doanh nghiệp đều có các đặc điểm riêng, có những lợi thế riêng và những hạn chế nhất định. Chính vì vậy mỗi doanh nghiệp phải tự đánh giá phân tích những ưu và nhược điểm của mình để tìm ra những phương thức tạo lập vốn phù hợp nhất hiệu quả nhất phát huy khả năng tiểm ẩn và hạn chế những nhược điểm.
LLê Hậu
pEm đang làm đề tài " Cách phân loại và vai trò của vốn đối với doanh nghiệ". Ah/chị có tài liệu nào tương tự k cho e xin mẫu tham khảo với ạ.
Trả lời5 years ago
Học quản lý giáo dục ra làm gì?
16/10/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Điểm chuẩn Học viện Quản lý Giáo dục
15/10/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Trường Cán bộ quản lý giáo dục
14/10/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Viện Khoa học Quản lý Giáo dục
10/10/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Học phí thạc sĩ quản lý giáo dục
07/10/2024 | Nguyễn Tuyết Anh
Học bổng thạc sĩ quản lý giáo dục
07/10/2024 | Nguyễn Tuyết Anh